
Phơ-ri-đơ-rích
Ăngghen (Friedrich Engels) là nhà lý luận chính trị, là
một triết gia và nhà khoa học người Đức thế kỷ 19, người
cùng với Các Mác (Karl Marx) đã sáng lập học thuyết Mác - học thuyết
khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
Phơ-ri-đơ-rích Ăngghen sinh ngày 28/11/1820 ở thành phố Ba-rơ-men
tỉnh Ranh, Vương quốc Phổ (ngày nay là nước Đức) trong một gia đình là chủ
xưởng dệt. Năm 14 tuổi, Ph. Ăngghen học tại thành phố Ba-rơ-men và đã sớm bộc
lộ năng khiếu về ngoại ngữ. Tháng 10/1834, Ph. Ăngghen chuyển sang học ở trường
trung học En-béc-phen-đơ, một trường tốt nhất ở Phổ thời bấy giờ. Năm 1837,
Ph. Ăngghen buộc phải rời bỏ trường trung học khi chưa tốt nghiệp để bắt đầu
công việc buôn bán ở Văn phòng theo yêu cầu của bố. Trong thời gian này Ông tự
học các ngành sử học, triết học, văn học, ngôn ngữ và thơ ca. Tháng 6/1838,
Ph. Ăngghen đến làm việc tại Văn phòng thương mại ở thành phố cảng Ba-rơ-men,
thành phố cảng lớn buôn bán với nhiều nơi trên thế giới. Tại đây Ph. Ăngghen
được mở rộng tầm hiểu biết về nền văn học và báo chí nước ngoài cũng như tác
động của cuộc cách mạng dân chủ tư sản đã chín muồi ở Đức hồi bấy giờ và chính
điều đó đã thúc đẩy việc hình thành các quan điểm dân chủ - cách mạng ở
Ph. Ăngghen.
Cuối năm 1839, Ph. Ăngghen bắt tay vào nghiên cứu các tác phẩm của Hê-ghen,
chính thức không trở thành thương gia như ý muốn của bố mà hiến thân cho một sự
nghiệp khác cao cả hơn.
Tháng 9/1841, Ph. Ăngghen đến Béc-lin và gia nhập binh đoàn pháo binh. Tại đây
được huấn luyện quân sự, đó là điều rất cần thiết, song Ph. Ăngghen vẫn lui tới
trường Đại học Tổng hợp Béc-lin nghe các bài giảng triết học, tham gia hội thảo
về lịch sử tôn giáo.
Mùa xuân 1842, Ph. Ăngghen bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung (Nhật
báo tỉnh Ranh). Trong những bài báo in năm 1842, Ph. Ăngghen đã lên tiếng phản
kháng chế độ kiểm duyệt của Chính phủ Vương quốc Phổ, trật tự phong kiến ở Đức.
Ngày 8/10/1842, Ph. Ăngghen mãn hạn phục vụ trong quân đội và từ Béc-lin trở về
Ba-rơ-men. Một tháng sau, Ph.Ăng-ghen sang Anh thực tập buôn bán. Trên đường
sang Anh, Ph. Ăngghen đã thăm trụ sở tờ báo Rheinische Zeitung ở Koln và đã gặp
C. Mác, Tổng biên tập tờ báo. Ph. Ăngghen đã ở lại Anh trong 02 năm. Trong thời
gian từ tháng 9/1844 - tháng 3/1845, Ph. Ăngghen đã
viết cuốn sách “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” và nhiều bài
báo khác để phân tích rõ sự phân chia xã hội thành 03 giai cấp cơ bản (giai
cấp quý tộc chiếm hữu ruộng đất, giai cấp tư sản công nghiệp và giai
cấp vô sản) và đi đến kết luận “đằng sau cuộc đấu tranh của các đảng
phái ẩn giấu cuộc đấu tranh của các giai cấp”. Những năm tháng ở Anh,
Ph. Ăngghen chưa hoàn toàn đoạn tuyệt với quan điểm của phái Hêghen trẻ, nhưng
lại có ý nghĩa quyết định trong việc dứt khoát từ bỏ những quan điểm duy tâm để
trở thành nhà duy vật. Tháng 2/1844, tham gia viết bài cho tờ tạp chí Niên giám
Pháp - Đức, các bài báo của Ph. Ăngghen đề cập đến việc áp dụng phương pháp
biện chứng vào việc phân tích các quan hệ kinh tế của xã hội tư sản. Tháng
2/1845, cuốn sách “Gia đình Thần thánh” của C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời,
đã phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm và phương pháp của nó, nêu luận điểm về
vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Trong hai năm 1845 -
1846, C. Mác và Ph. Ăngghen cùng hợp sức viết công trình nổi tiếng “Hệ tư
tưởng Đức”, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa duy tâm của Hêghen và phái Hêghen
trẻ; đồng thời, phê phán chủ nghĩa duy vật không nhất quán của Lút-vích
Phoi-ơ-bắc, nêu ra những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Năm 1848, Đại hội II Liên đoàn những người
cộng sản đã uỷ nhiệm C. Mác và Ph. Ăngghen cùng viết “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” - đó là Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản thế
giới, là ngọn đuốc soi đường cho giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức
vùng lên đấu tranh phá bỏ xiềng xích và mọi sự áp bức, bất công trong xã hội tư
bản.
Năm 1848, trong thời gian sống ở Pa-ri, Ph. Ăngghen quan tâm nhiều đến hoạt
động của Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản và trở thành
Uỷ viên của Ban lãnh đạo và là một trong những lãnh đạo Câu lạc bộ công nhân
Đức (tháng 3/1848) do Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản
lập ra.
Tháng 3/1848, cùng với C. Mác, Ph. Ăngghen thảo ra “Những yêu sách của
Đảng Cộng sản Đức” được Ban Chấp hành Trung ương Liên đoàn những người cộng
sản thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai
cấp vô sản Đức.
Tháng 4/1848 Ph. Ăngghen cùng với C. Mác trở về Đức tham gia cuộc cách mạng
Đức; tháng 10/1848, đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ nhưng do
không được phép cư trú chính trị nên Ph. Ăngghen lại đến Pa-ri; sau đó sang
Thụy Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức và được bầu vào Uỷ ban
Trung ương của tổ chức này.
Tháng Giêng năm 1849, Ph. Ăngghen trở về Đức tiếp tục hoạt động cách mạng.
Khi cuộc đấu tranh bùng nổ ở Tây và Nam nước Đức (tháng 5/1849), Ph. Ăngghen đã
vạch ra một kế hoạch hoạt động quân sự, thành lập quân đội cách mạng tiến hành
cuộc khởi nghĩa. Ngày 10/5/1849, Ph. Ăngghen đến Elberfeld và được bổ sung vào
Ban Quân sự, trực tiếp lãnh đạo việc xây dựng công sự, trông coi tất cả các
chiến luỹ trong thành phố, đồng thời kiêm nhiệm phụ trách pháo binh. Sau cuộc
khởi nghĩa ở Tây - Nam nước Đức, Ph. Ăngghen đưa ra một kế hoạch đã suy nghĩ kỹ
để triển khai cuộc đấu tranh cách mạng và dấy lên thành phong trào toàn nước
Đức. Trong thời kỳ này, Ph. Ăngghen tham gia trực tiếp 04 trận đánh lớn, trong
đó có trận Rastatt, một trận có ý nghĩa đặc biệt to lớn; sau này, đã viết “Luận
văn quân sự” nổi tiếng thể hiện khả năng thiên tài quân sự của Ông.
Tháng 11/1849, Ph. Ăngghen đến Luân Đôn (Anh) và được bổ sung vào Ban Chấp
hành Trung ương Liên đoàn những người cộng sản mà C. Mác đã cải tổ sau khi đến
đây. Ph. Ăngghen sống ở Luân Đôn một năm, trong thời gian này, ông đã viết hai
tác phẩm “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” và “Cuộc chiến tranh
nông dân ở Đức”.
Tháng 11/1850, Ph. Ăngghen buộc phải chuyển đến Man-che-xtơ (Anh) và lại
bắt đầu làm việc ở Văn phòng thương mại. Điều này tạo điều kiện cho Ph. Ăngghen
có thể giúp đỡ về vật chất cho C. Mác hoạt động cách mạng. Ph.Ăng-ghen đặc biệt
chú ý nghiên cứu các môn khoa học tự nhiên, quân sự, chính sách quốc tế. Cùng
với C. Mác, Ph. Ăngghen tham gia lãnh đạo Quốc tế Cộng sản I.
Tháng 9/1870, Ph. Ăngghen đến Luân Đôn và được đưa vào Tổng Hội đồng của
Quốc tế Cộng sản I. Ph. Ăngghen kiên trì đấu tranh chống lại quan điểm cơ hội
của phái Pruđông, Latxan, Bacunin.
Năm 1871, Ph. Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã
Pari. Trong thời gian này, Ph.Ăng-ghen đã viết một số tác phẩm có giá trị lý
luận, đặc biệt là cuốn “Chống Đuy rinh” (1878), góp phần to lớn cho việc
hoàn thiện lý luận cho chủ nghĩa Mác.
Sau khi C. Mác qua đời (1883), Ph. Ăngghen là người lãnh đạo tổ chức những
người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, chuẩn bị cho in tập 2 và 3 của bộ Tư bản
mà C. Mác chưa kịp hoàn thành. Ph. Ăngghen viết nhiều tác phẩm nổi tiếng vào
những năm cuối đời, như: Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước
(1884), Lút-vích Phoi ơ bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức (1886),
Biện chứng tự nhiên,Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức (1894); đồng thời tiếp
tục làm cố vấn và là người lãnh đạo của những người xã hội chủ nghĩa châu Âu.
Ph. Ăngghen đã tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cơ
hội trong các đảng công nhân, vạch trần và phê phán kịch liệt những khuyết điểm
của các đảng đó, giúp các đảng đó có một phương hướng cách mạng trong công tác.
Tác phẩm “Phê phán dự thảo Cương lĩnh của Đảng xã hội dân chủ năm 1891”, viết
năm 1891, là một văn kiện quan trọng của Ph. Ăngghen đấu tranh chống chủ nghĩa
cơ hội.
Ph. Ăngghen mất ngày 05 tháng 8 năm 1895 ở Luân Đôn, thi hài sau
đó được hỏa táng và thủy táng xuống biển.
Ban Tuyên giáo Trung ương